“Nếu
đem tiền của để phí phạm vào những việc cúng mặn, đốt vàng mã thì dù có đốt đi
trăm ngàn tờ giấy bạc, nhà lầu, xe hơi cũng chỉ vô ích mà thôi”.
Từ
lâu, thờ cúng tổ tiên ông bà đã trở thành một phong tục, nghi thức quan trọng bậc
nhất trong đời sống tâm linh của người Việt Nam. Phong tục này gần như trở
thành một thứ tôn giáo, là chuẩn mực đạo đức làm người. Tuy nhiên, do nhiều
nguyên nhân khách quan và chủ quan, tại nhiều gia đình Việt Nam, những nghi thức
này vẫn có nhiều sai sót, bất cập.
Phong
tục thờ cúng tổ tiên của người Việt Nam ra đời từ lâu, bắt nguồn từ niềm tin về
sự bất tử của linh hồn sau khi con người đã chết. Người Việt Nam cho rằng: linh
hồn của người đã khuất vẫn còn hiện hữu trong thế giới này và ảnh hưởng đến đời
sống của những người đang sống trên cõi trần. Chết chưa phải là hết. Tuy thể
xác tiêu tan nhưng linh hồn bất diệt và thường ngự trên bàn thờ để phù hộ cho
con cháu những khi nguy khó, khuyến khích con cháu làm những điều thiện và quở
phạt khi họ làm những điều tội lỗi. Người Việt cũng tin rằng: trần sao âm vậy.
Khi sống cần những gì thì chết cũng cần những thứ ấy, cho nên dẫn đến tục thờ
cúng, với quan niệm thế giới vô hình và hữu hình luôn có sự gắn kết và thờ cúng
chính là “cây cầu” để hai thế giới này gặp gỡ.
Vì
vậy, phong tục thờ cúng tổ tiên là biểu hiện của lòng hiếu thảo, “uống nước nhớ
nguồn”, nhớ công ơn sinh thành dưỡng dục của tiền nhân, bồi đắp cái phúc cho
mình, nhớ đến cội nguồn của mình, nhớ công đức cao dày của tổ tiên. Đây là một
truyền thống văn hóa tốt đẹp của người Việt mà chúng ta cần phải duy trì.
Người
Việt rất coi trọng việc cúng giỗ tổ tiên vào ngày mất (còn gọi là kỵ nhật), thường
được tính theo âm lịch. Họ tin rằng đó là ngày con người đi vào cõi vĩnh hằng.
Không chỉ ngày giỗ, việc cúng tổ tiên còn được thực hiện đều đặn vào các ngày mồng
một (còn gọi là ngày sóc), ngày rằm (còn gọi là ngày vọng), và các dịp lễ Tết
khác như: Tết Nguyên đán, Tết Hàn thực, Tết Trung thu, Tết Trùng cửu, Tết Trùng
thập,... Những khi trong nhà có việc quan trọng như dựng vợ gả chồng, sinh con,
làm nhà, đi xa, thi cử,... người Việt cũng dâng hương, làm lễ cúng tổ tiên để
báo cáo và để cầu tổ tiên phù hộ, hay để tạ ơn khi công việc thành công. Đây là
nghi lễ vô cùng quan trọng, bởi nhớ đến ông bà tổ tiên là đã thể hiện lòng
thành kính với vong linh người đã khuất, không phụ thuộc vào việc làm giỗ lớn
hay nhỏ. Chỉ với chén nước, bông hoa, nén hương thơm cũng giữ được đạo hiếu.
Tùy
theo mỗi nơi và mỗi gia đình, tùy vào điều kiện giàu nghèo mà cách trang trí và
sắp đặt bàn thờ có những sự khác biệt. Song về cơ bản, bàn thờ tổ tiên bao giờ
cũng đặt nơi cao ráo, sạch sẽ và trang trọng nhất trong nhà (gian giữa đối với
nhà một tầng, tầng trên cùng đối với nhà tầng). Trên bàn thờ thì bày bát hương,
chân đèn, bài vị hay hình ảnh người quá cố, chỗ thắp nến. Đồ cúng cơ bản không
thể thiếu là hương, hoa, trà, quả, thực. Bày thế nào cũng được, miễn sao thể hiện
được sự trang nghiêm, thành kính và đẹp mắt.
Về
bát hương, từ trước đến nay có 2 cách thờ: 1 bát hương hoặc 3 bát hương. Không
ai thờ 2 bát. Bát hương thứ nhất, ở giữa, cao nhất, thờ thần linh thổ địa,
trông coi đất đai nhà mình. Bát hương thứ 2, bên tay phải là thờ gia tiên: cửu
huyền thất tổ, ông bà cha mẹ, cô dì chú bác hai bên nội, ngoại. Bát hương thứ 3
là thờ bà cô, ông mãnh, những người chết trẻ, chết non, chết yểu, chưa lập gia
đình. Người Việt cho rằng vì chết trẻ nên bà cô ông mãnh rất linh thiêng. Nếu cảm
thấy “hợp” người thân nào thì sẽ phù hộ độ trì rất nhiều. Nếu thờ cúng bà cô
ông mãnh không đến nơi đến chốn sẽ bị quở phạt. Bà cô ông mãnh lẽ ra cũng nên
thờ cúng cùng bát hương với tổ tiên, nhưng dân gian quan niệm rằng bà cô ông
mãnh tuổi thấp nên chưa thể hưởng hương hoa cùng các cụ đời trước được. Giống
như trên cõi dương gian, trẻ con chỉ ngồi riêng một mâm khi ăn giỗ nên bà cô
ông mãnh cũng được thờ riêng một bát hương. Bát hương này thường đặt thấp hơn
bát hương tổ tiên một bậc.
Ba
bát hương tạo ra sự cân đối trên bàn thờ. Song cũng có những gia đình thờ đến 5
bát: gia tiên bên nội, gia tiên bên ngoại, bà cô ông mãnh bên nội, bà cô ông
mãnh bên ngoại, và quan thần linh thổ địa. Ta không nên tách rời như thế vì bàn
thờ nhiều bát hương quá. Tuy nhiên, thế giới tâm linh muôn hình muôn vẻ, áp dụng
trực tiếp theo từng vùng miền. Ví như ở miền Nam, người ta chỉ thờ 1 bát hương.
Họ thờ ông thổ công thổ địa ở dưới bếp. Thờ gia tiên chỉ thờ 1 bát. Bà cô ông
mãnh cũng nằm trong gia tiên nhà mình. Có điều, khác nhau về hệ thống thờ cúng
nhưng tâm linh người Việt ta bao giờ cũng đồng nhất: uống nước nhớ nguồn, tưởng
nhớ công đức của tổ tiên.
Việc
thắp hương trên bàn thờ bao giờ cũng phải thắp theo số lẻ: 1, 3, 5,… tránh thắp
số chẵn như 2, 4, 6,... Người ta quan niệm rằng, số lẻ là dương nên nó phù hợp
hơn với tổ tiên (người dương thắp cho người âm). Khi thắp hương, người ta phải
để hương sao cho thật thẳng, tránh để hương bị nghiêng, siêu đổ khiến đốm lửa
giữa các nén hương không đều nhau, làm hương bị tắt lửa, hương tàn rơi xuống đồ
lễ vật có thể gây gây hỏa hoạn. Tuy nhiên, theo tôi, hàng ngày chúng ta không
nên thắp nhiều hương. Nên thắp hương vòng. Vì nếu thắp hương nén, khói hương
nghi ngút, gây ô nhiễm bởi hương xạ bây giờ toàn hóa chất.
Tục
lệ đốt vàng mã, cúng mặn vào những dịp giỗ Tết đã có từ lâu đời, bén rễ và ăn
sâu vào tâm thức của người dân Việt Nam. Nhiều người cho tục lệ đó là một trong
những nét đẹp văn hóa của phong tục thờ cúng tổ tiên. Trong bất cứ dịp lễ nào,
từ ngày rằm, mùng một hàng tháng đến ngày Tết, ngày cúng giỗ tổ tiên, đều phải
có một mâm cỗ mặn và ít nhất vài bó tiền vàng để đốt như là một sự gửi gắm và
chăm lo cho những người đã khuất có một cuộc sống sung túc ở cõi âm.
Trước
hết, phải nói rằng: tục đốt vàng mã bắt nguồn từ Trung Quốc. Ngay từ thời nhà
Hán, mỗi khi mai táng người chết, họ đều chôn theo tiền giấy. Bởi vì, người
Trung Quốc từ xưa đến nay đều cho rằng: con người sau khi chết đều trở thành quỷ
“Nhân sở quy vi quỷ”, và thế giới của quỷ cũng giống trên dương gian, chỉ là vì
âm dương cách biệt mà thôi. Vì vậy, họ cho rằng quỷ cũng cần phải sinh hoạt và
cũng cần phải dùng đến tiền, cho nên khi mai táng, họ đã chôn theo tài sản tiền
bạc cho người đã tạ thế. Về sau, có nhiều người cảm thấy dùng tiền thật để mai
táng quả là đáng tiếc, nên đã dùng giấy giả làm như tiền thật, đốt cho ma quỷ
dùng.
Phong
tục này du nhập vào Việt Nam. Rất nhiều người Việt Nam cho rằng: đem dâng cúng,
đốt tiền vàng mã, các loại đồ dùng sinh hoạt mã như nhà, ngựa, xe, ti vi, tủ lạnh,...
thì ông bà, tổ tiên sẽ thọ dụng được. Tôi cho rằng: đốt vàng mã không có lợi
ích gì hết, không nên đốt, chỉ tốn tiền thôi. Vì trước hết, khi đốt, cái tro
cũng trở lại với mình, làm sao mà tiêu được. Thứ nữa, đa số người ta đốt vì tâm
lý bắt chước làm theo, không làm thì cảm thấy bất an. Cho nên có nhiều người
không ngại ngần bỏ ra nhiều tiền mua cả một sân vàng mã đốt cho người chết. Họ
nghĩ đốt nhiều thì người chết có nhiều tiền, được ăn sung mặc sướng. Tôi xin
nói thật: điều đó hoàn toàn vô ích, chỉ làm giàu cho người sản xuất vàng mã thôi.
Vậy người chết cần gì
ở cõi âm? Họ chỉ cần phước đức thôi. Có phước đức, họ mới sớm được siêu thoát về
cõi lành. Nếu người nào đó, lúc còn sống, làm nhiều điều phước thiện thì chắc
chắn khi chết, họ sẽ sớm được vãng sinh về cõi tốt lành để hưởng phước. Còn nếu
người nào lúc sống mà làm nhiều việc ác thì khi chết, họ sẽ bị đọa vào cõi ác để
thọ nhận quả báo chịu khổ. Nếu có người thân ở cõi trần trợ giúp như tụng Kinh
siêu độ, bố thí cúng dường trai Tăng, bố thí, giúp đỡ người nghèo khó, cúng
chùa, ấn tống Kinh sách,… rồi hồi hướng công đức cho người mất thì họ sẽ được
hưởng một phần, nhờ đó mà họ sớm được đầu thai, chuyển nghiệp. Còn nếu người vô
phước, khi chết đi, con cháu trên trần gian làm heo, giết gà, vịt,… linh đình để
cúng tế thì vô tình, họ lại gửi thêm nghiệp ác cho người mất, khiến họ sớm tái
sinh vào cõi ác. Do đó, nếu chúng ta thương người mất thì hãy làm đồ chay tiến
cúng, tụng kinh niệm Phật, làm việc phước hồi hướng cho họ. Làm lễ cầu siêu cho
cửu huyền thất tổ, ông bà cha mẹ.. Nhờ vào sức lực của chính chúng ta, tụng
kinh để giải nghiệp. Có vậy, mới siêu thoát được. Phật giáo chủ trương nhân quả
luân hồi và tất cả đều do nơi lòng chí thành mà có cảm ứng, nếu như tâm nguyện
chí thành rồi thì không cần phải dùng đến những việc như đốt sớ và giấy tiền
vàng bạc. Nếu đem tiền của để phí phạm vào những việc này thì dù có đốt đi trăm
ngàn tờ giấy bạc, nhà lầu, xe hơi cũng chỉ vô ích mà thôi.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét