Hơn hai mươi năm trước, ít ai
mường tượng được con đường từ đê Ngô Xá đi xã Tiên Lương (huyện Cẩm Khê, Phú
Thọ) lại được trải bê-tông nhựa hiện đại, nối thẳng lên cây cầu Ngòi Giành,
vĩnh viễn chấm dứt cảnh bị cô lập, đò giang trắc trở mỗi mùa nước lũ ở vùng quê
bán sơn địa này. Miền đất Hoa Khê – Cẩm Khê hiện nay nhìn từ vệ tinh (qua
Google Map) giống như một doi đất trên “dòng sông” trung du khổng lồ.
Một nét trung du. |
Miền đất có tên như hoa, như gấm
Cẩm Khê (tên cũ là Hoa Khê được dùng
trong gần 400 năm), là huyện phía tây bắc của tỉnh Phú Thọ, cộng đồng cư dân
gần 130 nghìn người sinh sống trên miền đất rộng 23.425 héc-ta. Tên cũ Hoa Khê
có nghĩa là khe nước hoa, nôm na là ngòi nước đẹp như hoa. Còn tên gọi Cẩm Khê
chính thức được xác lập vào năm Thiệu Trị thứ nhất đời nhà Nguyễn (năm 1841)
với sáu tổng, 41 làng. Vì phạm húy với tên Hoàng Thái hậu Hồ Thị Hoa (mẹ Vua
Thiệu Trị), nhà Nguyễn đã đổi Hoa Khê thành Cẩm Khê. Dẫu gì thì chữ “Hoa” và
chữ “Cẩm” (gấm vóc), cả hai đều đẹp lung linh như chính miền đất này!
Với đặc trưng miền đất trung du bán
sơn địa, thấp dần từ tây bắc xuống đông nam, Cẩm Khê hiền hòa phân thành hai
vùng rõ rệt: vùng đồi và vùng ven sông. Tạo tác thiên nhiên thật khéo phân định
địa giới Cẩm Khê bằng ba con sông và một dãy núi vòng cung. Ranh giới ở phía
đông là dòng Thao Giang quanh năm đỏ nặng phù sa, ở phía tây là dãy núi vòng
cung thuộc dãy Hoàng Liên Sơn, ở phía nam là dòng sông Bứa mà hạ lưu của nó
nhập vào sông Thao, ở phía bắc là ngòi Giành – một chi lưu của dòng Thao Giang.
Cẩm Khê có cảnh quan đặc thù của
vùng trung du gắn với những đặc trưng của nền Văn minh sông Hồng. Địa hình sông
ngòi, có nhiều vùng đồng, đầm, ao hồ trũng thấp nên trước đây ngập úng thường
xuyên xảy ra và kéo dài khiến cho việc đi lại, sản xuất và đời sống của người
dân Cẩm Khê gặp không ít trở ngại. Trải qua hàng nghìn năm, dưới bàn tay khai
khẩn, cải tạo của nhiều thế hệ cư dân, vùng đất vốn hoang vu này ngày càng trở
nên trù phú, chứa đựng trong mình nhiều tiềm năng phát triển.
Cư dân Cẩm Khê từ ngàn xưa đến nay
hầu hết là người Kinh (hiện chỉ có hơn 800 người dân tộc thiểu số như Mường,
Dao, Tày, Nùng đến với đất Cẩm Khê vì lý do hôn nhân). Với đặc trưng nếp nhà
người Việt, trước những năm 50 của thế kỷ 20, mô hình gia đình ở Cẩm Khê là
“tam, tứ đại đồng đường”. Do quá trình vận động xã hội và sự thay đổi nhận
thức, vài thập niên trở lại đây, mô hình gia đình trong một nếp nhà chỉ còn hai
thế hệ.
Nghề chính của cư dân Cẩm Khê là
trồng lúa nước và rau màu. Miền đất Cẩm Khê có hàng trăm cánh đồng lớn nhỏ cùng
nhiều triền ruộng bậc thang chạy theo các chân đồi, ngách dộc. Có những cánh
đồng lớn được xem như "vựa thóc của Cẩm Khê" như cánh đồng Ba (Tuy
Lộc, Phương Xá), đồng Láng Chương (Văn Khúc, Chương Xá, Tình Cương)... và những
cánh đồng “bờ xôi, ruộng mật” ở các xã vùng ven sông Thao. Một bộ phận cư dân
Cẩm Khê còn có thêm các nghề thủ công tinh xảo, truyền đời gần 500 năm nay,
như: nghề mộc, làm nón lá, mây tre đan, rèn... Hệ thống các đầm, ao, hồ với
diện tích hàng trăm héc-ta đã tạo cho Cẩm Khê có nguồn thủy sản cũng vô cùng
phong phú. Câu ví “cá đầm Meo, beo Yên Dưỡng” không biết có từ bao giờ, nhưng
đó là chỉ dấu về đặc sản cá tôm của vùng đầm và đồng nước Cẩm Khê. Trước đây,
mỗi mùa nước cạn, người dân ở vùng đồng Đào, đồng Mèn, đầm Meo, đầm Dộc Gạo…
vẫn đánh bắt được những con cá nặng tới hơn hai yến. Giờ đây, hầu hết diện tích
mặt nước được quy hoạch theo các chương trình dự án nuôi trồng thủy sản, được
áp dụng kỹ thuật, công nghệ tiên tiến, đem lại sản lượng thủy sản thương phẩm
có giá trị kinh tế cao hơn gấp bội.
Suốt quá trình trị thủy để mưu sinh
với nghề trồng lúa nước, người dân Cẩm Khê luôn giữ những truyền thống, những
phẩm chất đặc trưng của cộng đồng làng xã Bắc Bộ, cần cù, chịu thương chịu khó,
chắt chiu, kiên trì... Công cuộc quai đê trị thủy ở Cẩm Khê được tiến hành từ
thế kỷ 18 – 19, thành quả là đắp được con đê sông Thao dài gần 40 cây số. Trong
nội đồng, hàng nghìn bờ vùng, bờ thửa dần được hình thành. Công cuộc xây dựng
đập Ba Vực, đập Vực Ẩu, đập Dộc Gạo, đập Nhà Chắp… và hàng trăm hồ đập, mương
máng là minh chứng cho quyết tâm không mệt mỏi trong công cuộc chế ngự thiên
nhiên của người Cẩm Khê.
Cá chép cong mình "vượt vũ
môn"
Cư dân Cẩm Khê cũng luôn trân trọng
tôn thờ những người có công với làng nước. 38 di tích lịch sử, văn hóa được xếp
hạng, trong đó có năm di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia, như: đình Thổ Khối,
đình Phương Xá, đình Trình Khúc, đình Hội, đình Hạ Khê... và các đình, đền,
nghè, miếu thờ cúng Hùng Vương và các danh nhân, danh tướng, nhân vật lịch sử
thời kỳ Hùng Vương cùng 56 lễ hội truyền thống. Phần lớn lễ hội đình làng ở Cẩm
Khê được tổ chức vào mùa giêng hai hằng năm, đều mang một ý nghĩa tôn thờ những
bậc thánh nhân hiển linh và là điểm nhấn cho hoạt động văn hóa tâm linh truyền
thống của cộng đồng.
Có lẽ xuất phát từ điều kiện lao
động và khát vọng cuộc sống, từ ngàn xưa cư dân Cẩm Khê đã có tố chất cương
cường mạnh mẽ nhưng rất biết đùa và luôn hóm hỉnh. Cẩm Khê từng là căn cứ địa,
là nơi diễn ra những sự kiện oanh liệt chống ngoại xâm. Trong khởi nghĩa Hai Bà
Trưng, các nữ tướng hợp binh chiến đấu ở Van Bán Trang. Sau này, thời đầu triều
đình chống Pháp, nghĩa quân Ngô Quang Bích làm cuộc khởi nghĩa Tiên Động trong
phong trào Cần Vương…
Phải chăng người mạnh mẽ là người
biết giấu mọi chuyện dưới nụ cười! Vì thế những câu vè, vần thơ dân gian ở Cẩm
Khê rất sâu sắc. Thôn nữ Cẩm Khê nói về nghề làm nón lá: Nón ai nón bạc nón vàng/Nón em lá cọ che ngang mặt trời. Và khi
phát “tín hiệu” với các cô thôn nữ, các chàng trai Cẩm Khê đọc: Đi đâu nón chẳng đội đầu/Lại đây hai đứa lấy
tàu cọ che. Trêu chọc, tếu táo, thậm chí bày tỏ tình cảm với nhau nhưng vẫn
ẩn chứa một thông điệp là động viên nhau trong lao động sản xuất, nam thanh nữ
tú ở Cẩm Khê xưa đối đáp thật dí dỏm: Em
làm cỏ sắn trên nương/Anh thì gánh củi trong rừng gánh ra. Và: Bên này gò, bên ấy cũng gò/Muốn ăn dọc chín
thời mò sang đây/Dọc chín còn ở trên cây/Muốn ăn dọc rụng, sang đây cùng tìm.
Những chàng trai Cẩm Khê xưa bày tỏ
lời khen, sự quan tâm của mình đến nàng thôn nữ nào đó thì sẽ nói xa nói gần: Hỡi người gánh nước quang tre/Cho tôi một
gáo tưới chè cho vui, hay: Rủ nhau
lên núi hái chè/Hái dăm ba lá xuống khe ta ngồi. Nếu chưa được phản hồi thì
tiếp: Cách nhau có nương chè thưa/Những
lời em nói anh chưa nghe tường/Lạ lùng anh mới tới đây/Thấy gốc chè mạn, thấy
cây chè đồi. Nếu nàng thôn nữ “bề trong như đã, mặt ngoài còn e” thì sẽ đáp
lại: Trước nương sơn, sau lại nương
chè/Ước gì em được đi về cùng anh.
Bên cạnh những câu ca dao ngẫu hứng
độc đáo ấy, hồn sông hồn đất Cẩm Khê cũng sản sinh những danh nhân mà tên tuổi
đã đi vào sử sách. Theo Đại Nam tích niên sử, từ thế kỷ 15, phong trào học hành
thi cử ở Cẩm Khê đã khá rầm rộ và đã có người thi đỗ tiến sĩ. Cẩm Khê cũng sản
sinh ra nhà thơ Bút Tre – Đặng Văn Đăng, với những vần thơ ông hóm hỉnh, gây
cười mà lại rất thấm thía đã có sức lan tỏa sâu rộng trong nhân dân. Nhà thơ
nổi tiếng Phạm Tiến Duật (cũng người quê Cẩm Khê) từng viết: “Tôi cũng được coi
là người nổi tiếng, nhưng không thể nổi tiếng bằng cụ. Cụ Bút Tre đã từng là Giám
đốc Ty Văn hóa tỉnh tôi, và là người có đạo đức mẫu mực, được nhiều người mến
mộ và kính trọng. Chỉ có thơ cụ là rất buồn cười”.
Nối tiếp truyền thống hiếu học đáng
tự hào đó, mảnh đất Cẩm Khê đã có hàng trăm con dân của mình là tiến sĩ, thạc
sĩ thuộc nhiều ngành, nhiều lĩnh vực khác nhau. Những cái tên phải kể đến là:
Giáo sư, Viện sĩ Trần Đình Long, chuyên gia hàng đầu về di truyền chọn giống
cây trồng, "cha đẻ" của 22 giống cây trồng mới, hiện đang được phát
triển trên hầu hết các vùng sinh thái của nước ta; cố Thượng tướng Nguyễn Khắc
Nghiên, nguyên Tổng Tham mưu trưởng Quân đội Nhân dân Việt Nam; Tiến sĩ Vật lý
Nguyễn Mộng Giao; Giáo sư, Tiến sĩ Y khoa Trần Phú Cường; Giáo sư, Tiến sĩ Hóa học
Lê Quốc Hùng; Giáo sư, Tiến sĩ Văn học Trần Ngọc Thêm; Giáo sư, Tiến sĩ Sinh học
Đỗ Ngọc Liên,... Nhạc sĩ Phú Quang, cũng là một người con sinh ra ở Cẩm Khê và
có năm năm thời thơ ấu sống ở miền đất này.
Bí thư Huyện ủy Cẩm Khê Dương Hoàng
Hương cho biết, Đảng bộ huyện đã xác định rõ mục tiêu từ nay đến năm 2020 là:
Tập trung thực hiện những nội dung trọng tâm trong các khâu đột phá về “Phát
triển chăn nuôi gia súc, gia cầm và thủy sản theo hướng sản xuất hàng hóa; đẩy
mạnh thu hút đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng gắn với xây dựng nông thôn
mới", tạo sự phát triển nhanh và bền vững; nâng cao đời sống vật chất,
tinh thần của nhân dân.
Hơn hai mươi năm trước, ít ai mường
tượng được con đường từ đê Ngô Xá đi xã Tiên Lương lại được trải bê-tông nhựa
hiện đại, nối thẳng lên cây cầu Ngòi Giành, vĩnh viễn chấm dứt cảnh bị cô lập,
đò giang trắc trở mỗi mùa nước lũ ở vùng quê bán sơn địa này. Miền đất Hoa
Khê-Cẩm Khê hiện nay nhìn từ vệ tinh (qua Google Map) giống như một doi đất
trên “dòng sông” trung du khổng lồ. Với chiều dài 45 cây số, chiều rộng bình
quân bốn cây số, cái “doi đất” ấy hệt như chú cá chép đang cong mình “vượt vũ
môn”, đầu hướng về phía tây bắc, đuôi ở phía đông nam. Những thành quả của ngày
hôm nay đều được bắt nguồn từ khát khao, niềm mơ ước cháy bỏng và quyết tâm cao
độ từ thế hệ này sang thế hệ khác của con dân Cẩm Khê.
Các Phật tử Tổ đình Long Khánh, xã Tình Cương. |
TÔ NAM – Theo:
www.nhandan.com.vn
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét