Quẩn quanh, tay chống cằm ngồi nhìn ra vườn cọ hoang tàn, chợt
có vị khách xồng xộc đến, ông Vẽ dò dẫm đứng lên, dụi mắt. Hóa ra, bà cụ hàng
xóm, người cùng tuổi với ông Vẽ, lại vừa chết lúc ban trưa. Cán bộ xóm người ta
đi thu tiền “gạo nước”, mỗi hộ đóng 10 nghìn đồng, thôi thì, nghĩa tử là nghĩa
tận. Ông Vẽ ở một mình, nghèo quá là nghèo, run run tìm ruột tượng giữ tiền đem
ra nộp, tôi nhanh tay móc tiền ra trước, ông Vẽ cằn nhằn, lần nào anh đến cũng
cứ cho tôi tiền. “Anh còn để tiền mà tàu xe tìm lối về Hà Nội chứ”. Ông lẩm bẩm,
“Hôm nào đó lại đến lượt tôi về với cõi của các cụ. Sống thì lâu, chết thì nó
nhanh lắm, vừa chết đấy, lại đến giỗ đầu ngay đấy”. Cái hành trình ông tìm về
quê, cũng cứ như là từ âm ty tìm về dương thế ấy. Ông kể chuyện, bằng cái giọng
của thầy cúng luyện âm binh. Như bố ông, ngày xưa, cùng con nhang đệ tử cắn lưỡi
mình đứt từng miếng nhỏ, phun máu phì phì ra giấy bản để “bắt quyết niệm chú”…
Phải cưới
vợ để có thêm người làm cho… nhà địa chủ!
Thấy tôi đến tuổi… có thể lấy vợ được, bà Tư Hồ bèn tính chuyện cưới vợ
cho tôi để có thêm người ở. Giống như tôi bị bắt cưới vợ. Ông bà ấy bảo: Tối,
mày đến gặp tao, tao nói cho mày biết chuyện này. Tối tôi vào, bà bảo: Mai, mày
ăn mặc cho tử tế, tao đưa đi xem mặt một người. Tôi chả hiểu gì. Đến nơi, chả
kịp nhìn mặt, chả biết mình có thích nói chuyện với “cô kia” không, ông bà hạ
lệnh cưới luôn. “Vợ mày đấy, phải thương yêu nhau, bảo ban nhau làm ăn cho… đến
nơi đến chốn”. Lúc ra đồng làm quần quật, tôi gọi vợ tôi là “chị Bằng”, chị
Bằng gọi tôi là Vẽ, trống không. Có hôm rét, tôi xuống nhà, chị ấy trông thấy
tôi, xấu hổ quay mặt đi. Chị cũng chả biết “thích” (yêu đương hay quan hệ tình
dục) tôi, tôi cũng chưa biết “thích”, tôi bèn xuống lò trấu dưới bếp ngủ cho
ấm. Trước lúc vào bộ đội, tôi bảo: “Chị ở nhà, tôi đi!”. Lúc tôi trở về, chị
vẫn là “con dâu”, con ở cho nhà ông Tham Hồ. Nhà “chị” Bằng rất nghèo, bố đau
yếu, sau này, vì nhiều chuyện rích rắc, chúng tôi hầu như không đi lại nữa dù
vẫn thương xót và tôn trọng nhau, bà ấy có đi bước nữa, có con cái đàng hoàng.
“Sau mấy bận trốn đi bộ đội, người
ta chê tôi ít tuổi không nhận, đành ở lại nhà ông Tham Hồ (tên thật là Nguyễn Hữu
Hồ) thêm vài năm. Thú thật, độ ấy, cứ thấy chỗ bộ đội đông vui là đám trẻ tôi
đòi chúng tôi bỏ nhà đi theo. Có khi bị trương tuần, bảo an nó bắt về đánh cho
một trận nhừ tử, mặt buồn rười rượi. Vào khoảng năm 1948, bấy giờ tôi khoảng 17
– 18 tuổi, loáng thoáng nghe là có lệnh tòng quân của nhà nước, tôi xung phong
đi luôn. Đi để thoát khỏi cái bà địa chủ nanh nọc kia. Tôi nhớ, tôi được vào đại
đội 3, tiểu đoàn Độc Lập 174, F316, tập trung quân ở Bắc Giang. Anh cán bộ ấy hỏi
tôi về lý tưởng, tôi bảo, tôi không có lý tưởng nào khác là được đi bộ đội.
Nhưng trình độ văn hóa tôi không có. Sau này, ở nhà tù thực dân, tôi mới được
“chúng nó” cho học vài chữ võ vẽ tí ti.
Chúng tôi đã được sung vào đội ngũ những người trẻ
sang Vân Nam, Trung Quốc học cái trường Quân Chính gì đó. Đang chỉnh trang thủ
tục, thì lại có lệnh tất cả rút về đi chống càn của địch. Bấy giờ khoảng năm
1951, tôi nhớ mang máng thế, chúng tôi đi chống càn khắp một dải từ Bắc Ninh đến
Hải Dương. Bấy giờ địch tuyên truyền “bậy bạ” trong dân chúng là: Việt Minh nó
về, thì “chúng bay” (dân chúng) chết hết làm dân chúng hoang mang, các tiểu
đoàn chúng tôi phải vừa chống càn vừa vận động bà con giác ngộ, không nghe theo
lời “ly gián” của địch. Tiểu đoàn 174 chúng tôi, cùng tiểu đoàn 308 đánh địch
vô cùng ác liệt. Trên trời thì tàu bay, bom lửa Napan, dưới đất thì súng lớn,
xe tăng đông như cua chạy trên đồng, chúng cứ dàn hàng ngang mà xung trận. Hỏa
lực của địch vô cùng mạnh. Tôi nhớ, đồng chí trung đội trưởng của tôi, anh Đặng
Đức Cầu, bị địch bắn gần đứt lìa cánh tay, anh ra lệnh tôi phải chặt bỏ tay
anh, rồi phải dùng dao găm cứa đứt những sợi gân xanh tím giữa xối xả máu của
anh; rồi sau này, anh hy sinh ở trong tù.
Sau 2 ngày đêm, “ta” phải rút quân chiến lược. Tôi
và nhiều đồng chí bị địch bắt.
Bị nhốt trong tải xác rắn, ném lên tàu, chở ra giữa
đại dương…
“Nó” nhốt chúng tôi ở Nhà Tiền – nguyên là khu vực
“sản xuất” tiền của Pháp ở Hà Nội, ở gần khu vực Khâm Thiên bây giờ (?). Tôi bị
nó tra hỏi, tra tấn suốt 3 tháng trời, rồi đưa sang Hỏa Lò. Bị nhốt trong một
cái hộp như cái quan tài có nắp kính nho nhỏ để ánh sáng lọt vào. Chiếc quan
tài dựng đứng, ở độ cao gần miệng của tôi, nó chế tạo một cái ngăn kéo có thể
kéo ra, đóng vào. Bữa đến, nó lôi “ngăn kéo” ra, thả ít thức ăn vào đó, rồi đẩy
ngăn kéo vào phía miệng tôi. Tôi bị bó chặt trong quan tài, người tê dại như bị
chôn sống ở tư thế khòng khòng. Muốn ăn, phải nhoài người ra phía trước, vục mồm
xuống khay cơm mà ăn… như súc vật. Mỗi bữa nó chỉ cho ăn một nắm cơm bằng quả
trứng ngỗng, ăn với cá mắm mủn mục, và uống thứ nước gì, mà anh nào càng “tợn
ăn” thì càng chóng chết. Là bởi vì, cơ thể sẽ phù nề lên, có giời cứu. Cả tuần
mới được cho ra ngoài tắm rửa vài phút. Vệ sinh cá nhân… không được cựa quạy,
ngay trong cỗ quan tài dựng đứng đó.
Nó tra tấn, trước sau tôi chỉ khai: không biết chữ, là người đi ở, vừa
mới ra lính, chả biết ai là ai, chả biết “phiên hiệu” đơn vị nào. Ngày nào nó
cũng xích lại, bắt khai này nọ. Chúng tra tấn bằng dùi cui điện, quay điện, bàn
quay điện. Nó vung những cái máy lửa điện bật xòe xòe hoa cả mắt. Nó đánh chán,
dí một cái là ngất xỉu đi. Nó dội cho gáo nước lại tỉnh.
Được mấy
tháng, nó lại lôi ra ngoài Hải Phòng. Đi tàu hỏa. Trên đường, có rất nhiều
người bị địch bắt, tra tấn như tôi, và chúng tôi cũng bí mật nhận lệnh là phải
tiêu diệt những kẻ chỉ điểm, mật thám, “mắt mèo” do địch đã dụ dỗ được, đã cài
vào tổ chức để làm “đặc tình” triệt hạ anh em lính Cụ Hồ. Nhiệm vụ của chúng
tôi là phải tiêu diệt những kẻ bán nước. Chúng tôi lên gồng, trùm chăn kín, đấm
chết tất cả bọn chúng. Rồi nhét xác xuống gậm ghế của từng toa tàu. Khi bọn “hộ
tống” người Pháp lục thấy thi thể bọn “mắt mèo”, chúng cũng xanh mắt mèo luôn.
Chúng bảo, “Việt Minh đáo để thật”. Địch nhốt tất cả chúng tôi trong một cái
sân bẩn thỉu suốt 1 tuần. Rồi một con tàu lớn cập cảng Hải Phòng, tất cả các tù
binh được “hót” lên boong. Mỗi anh nhét trong một cái bao tải xác rắn ẩm thấp
(giống như chúng ta chở lợn đi bán). Chúng tôi họp lại, tiểu đoàn trưởng Cao
Minh Sơn “nhận định tình hình”, thôi thì lần này là lần chia tay vĩnh quyết.
Chết, thì cũng chấp nhận chết. Nhưng còn cơ hội sống, còn phải xông ra giành
lấy sự sống. Mỗi người bí mật đem theo một vật nhọn, như con dao, cái kéo, lưỡi
lam, nếu “nó” đưa tàu ra tít tịt ngoài biển xanh, nó ném tất cả các bao tải lợn
xuống làm mồi cho cá dữ. Thì mình phải rạch tải chui ra, “chiến đấu” với biển
cả, cướp tàu, trở về tiếp tục đánh giặc. Chúng tôi bảo nhau “sống về, chết chịu”.
Nó đi quanh quéo thế nào, mà nó chả đi bón xác chúng tôi cho hàm cá mập
như… tưởng tượng. Đi mấy ngày đêm, càng đi càng thấy nước xanh biêng biếc, có
anh lẩm bẩm, hay nó đưa mình sang… Pháp? Tất cả chúng tôi đều là bần cố nông,
có anh là lính Thổ (người miền núi), chả đi biển bao giờ, nhìn thấy tàu của
mình lừng lững đi, thấy biển mịt mù, lại càng sợ hãi. Chợt có lệnh mở… bao tải.
Ai đó giật mình, chắc nó bắn chết trên boong tàu rồi ẩy xuống biển cho chắc ăn?
Tất cả chúng tôi xếp hàng, nó bắt ở trần ở truồng, rồi dùng máy phun nước biển
lên cho tắm táp thoải mái. Tắm sạch boong bằng nước ở tít tắp đại dương, nước
xanh trong tuyệt diệu. Tôi ở tù mãi, ghẻ lở hắc lào tràn lan, cảm giác ngồi
trong quan tài chôn sống ở Hỏa Lò còn khó chịu hơn lên… đoạn đầu đài. Giờ được
Tây nó phun nước cho tắm thỏa thích, đúng là “ăn no tắm mát”, khoan khoái quá.
Sau này, ra đến Côn Đảo ở tù suốt 3 năm mấy tháng giời, ngồi nghĩ lại, tôi thấy
hành động cho tù nhân tắm trên boong tàu hôm đó thật “nhân đạo” (!); vì từ bấy
tôi hết tiệt ghẻ lở, hắc lào. Và hình như từ buổi tắm biển trong cõi… cầm chắc
cái chết đó, tôi cũng chưa một lần được tắm biển lần thứ hai.
Nằm ở Hạnh
Thông Tây (nhà tù) ở Sài Gòn, nằm ở “địa ngục trần gian” Côn Đảo mấy năm, với
nỗi kinh sợ: “Bao giờ đến lượt mình ra cầu Ma Thiên Lãnh”, đó là nơi bọn cai
ngục đem tử tù ra hành quyết. Một nhát dao, một viên đạn, là vùi sâu chôn chặt
dưới đáy đại dương, làm mồi cho cá dữ. Nghe người ta mang tù nhân đi giết, lẩm
bẩm bao giờ đến lượt mình, có lẽ, điều đó còn đáng sợ hơn cả cái chết. Sau hiệp
định Giơ-ne-vơ được ký kết, tôi được trả về Sầm Sơn, Thanh Hóa. Từ
đó, tôi được điều đi bảo vệ cho cải cách ruộng đất, trở về địa phương phát
triển kinh tế.
Khi ấy, ông Tham Hồ bị đưa ra đấu rất ác liệt. Nhưng tôi cũng trả nghĩa
cho ông ở chỗ: ông được xếp “xuống” thành phần địa chủ kháng chiến (nhẹ tội
hơn), là bởi vì ông có đứa con nuôi (tức là tôi, Đỗ Hữu Vẽ) đi theo cách mạng,
bị địch bắt, tù đày, giờ làm bảo vệ cải cách. Riêng vợ ông Tham Hồ thì bị đấu
rất nặng nề. Ngay cả khi ông chỉ một mực xin tha tội, biết tội rồi, nhưng ông
vẫn phải thật thà công nhận là vợ ông quá ác độc, đày đọa người ở con sen đủ
đường. Đến mức, khi nông dân ở cái làng đó (xung quanh là làng Ve, làng Lộc)
người ta cho vợ ông Tham Hồ một khoảnh đất hoang cuối làng, dựng túp lều ở gá,
bà ta đã biết tội, đã quá ân hận, đã thắt cổ tự tử. Bà tự tử khi bụng mang dạ
chửa, mấy ngày sau người ta mới phá cửa xông vào đem đi mai táng qua quýt ở nơi
nào tôi cũng chả biết nữa. Một ám ảnh kinh hoàng nhất với tôi, là cảnh bà “mẹ
nuôi” treo cổ đó (mà tôi nghe kể lại)… Tôi biết chuyện, không dám đến thăm, bởi
“quy định” hồi đó rất kinh khủng. Mình lớ vớ đến thăm, có khi người ta lại quy
cho mình đồng lõa với “thành phần bóc lột”. Ngay cả cái việc sau này tôi làm Bí
thư chi Đoàn thanh niên của xã mà tôi đã bị đày đọa nhiều năm kia, tôi muốn gặp
tâm sự vài lời với ông Tham Hồ, “bố nuôi” của mình, tôi cũng phải xin phép “cấp
trên”, rồi cho người cùng gặp gỡ (kiểu như giám sát), mà tôi gặp cũng chỉ là
mong muốn tìm lại tung tích của mình, cha mẹ mình liệu có còn sống hay không.
Cái thời ấy nó thế.
“Bóng ma”
về làng sau hơn 20 năm nhang khói…
Lại nói
chuyện tôi tìm đường về quê. Khi ông Tham Hồ đang đi nhặt cỏ, đắp đường (cải
tạo), thì tôi xin với tổ chức, rằng “em” suốt đời thân cô thế cô, giờ làm Bí
thư chi Đoàn xã, có nhà cửa, được chia cả trâu bò sung túc, em muốn tìm được
cha mẹ mình, tìm quê hương bản quán. Xin tổ chức cho em được gặp gã “địa chủ” Tham
Hồ để hỏi đường, vì em là con nuôi ông ấy, ông ấy nhận con đi từ ngày em lên 6
tuổi.
Ông Tham
Hồ nói bằng tiếng Pháp, rất lịch sự, lại vẽ cả sơ đồ lên Ga Phú Thọ, vào khu
Chủ Chè, ra xã Tình Cương, qua phà 100m, hỏi vài cái nhà có cây cau cao nhất
xóm. Vừa đi vừa dở giấy lần đường, qua đình, qua gốc đa, qua rặng tre, tôi
không nhớ tí nào, không biết đấy là quê mình, chỉ linh cảm rằng, mình sắp được
gặp bố mẹ, anh chị em… Đi đến gốc đa đầu làng, gặp cô gái trẻ, tôi hỏi thăm, cô
ấy tên là Rễ, sau này, run rủi thế nào, cô ấy lại phải duyên, tôi đã cưới cô
làm vợ. Tôi tìm tiếp vào nhà ông Ký Tế, hỏi thăm dính nhà ông Hùng, chú ruột
của tôi. Ông ấy hỏi dồn:
- Anh là
ai? Anh hỏi có chuyện gì? Trời ơi, mày là thằng Vẽ phải không? Cha bố mày, tao
là thằng chú mày đây! Bố mày đã bị người Pháp nó bắt đi, đã chết rồi, cháu ạ.
Tôi khóc
ầm ĩ. Tôi không thể ngờ cơ sự lại đến nỗi như thế.
Hai vợ chồng ông Vẽ, bà Rễ đều được nhận Huân chương Kháng chiến! Nhưng còn quá nhiều cống hiến của ông Vẽ đã thực sự bị quên lãng, khiến ông thấy tủi thân sau cả một đời tận khổ. |
“Cháu không uống nước non gì đâu. Cháu muốn gặp gia đình, gần ba chục
năm xa cách rồi, chú ạ” – tôi nói. Ông chú bảo: Mày để xem mọi người có còn
nhận ra mày không nhá. Mày cứ bảo mày là thằng buôn trâu, nhờ tao dẫn sang nhà
mày để tìm mua trâu nái.
Đến nhà,
nói chuyện một lúc, thì các ông anh trai, anh Văn, anh Khoán của tôi đã nhận ra
tôi, họ ôm lấy tôi, ai cũng hét toáng: “Thằng Vẽ, nó còn sống!”. Bà bủ (mẹ tôi)
đi thả trâu ngoài đồng Đáp, chạy hộc tốc từ dộc về, bà gào lên, rồi ngất xỉu,
ngất mãi đến chiều mới tỉnh được. Cả nhà hãi hùng, khóc rầm trời. Hàng xóm, có
người ní nót: Thằng Vẽ hay là hồn ma của nó hiện hình? Nhà tôi đông như nhà có
đám cưới, đám ma. Anh Khoán gỡ bát nhang thờ tôi trên bàn thờ xuống, cứ cằn
nhằn, rằng anh vẫn linh cảm là tôi còn sống, dù người ta đã báo là… chết mất
xác ở tận đẩu đâu.
Sau này, ông Tham Hồ có lấy vợ nữa, các con của ông, giờ đây đều phương
trưởng, có người làm lãnh đạo doanh nghiệp, có người làm bác sỹ rất giỏi trên
xứ Bắc. Quá khứ trôi qua như cơn ác mộng kinh hoàng, ông Vẽ cũng đã có lần về
lại cái làng đau thương mà ông đã sống cả hai chục năm trời kia. Ông, con cụ
Tham Hồ, người làng gặp nhau, mừng mừng, tủi tủi. Cũng có người con ông Tham
Hồ, vì mặc cảm quá khứ nặng nề, đã đối xử với ông Vẽ như… kẻ thù. Có người đồng
đội của ông Vẽ năm xưa, giờ đã được ghi nhận đủ thứ huân huy chương, chế độ của
người có công với cách mạng (do giữ được đầy đủ giấy tờ); riêng ông còm cõi chả
được gì. Chuyện nay thoảng qua, chuyện xưa dày bì bì, nặng trình trịch, có lẽ,
nó mãi ám ảnh ông Vẽ đến tận ngày hai tay chắp bụng về chầu tiên tổ. Đôi lúc,
ông Vẽ cứ nghĩ: quãng đời mà ông vừa kể, nó như một kiếp khác của ông. Cái cõi
ấy, đôi lúc kể cho xóm mạc, con cháu nghe thử một khúc, họ cứ tròn mắt ngạc
nhiên, nửa tin nửa ngờ. Thành thử, những chiều trung du chìm trong bóng cọ già
nua, khói bếp lơ đễnh bay lên, bốn bề tịch mịch, ông Vẽ cứ như người mộng du.
Dù không muốn, quá khứ tôi đòi và thê lương tù đày kia cứ bị chôn rấp, chôn rấp
sâu mãi xuống, nó bị quên lãng một cách không nên thế. Điều đó khiến ông cụ Vẽ
càng ngẫm càng tủi…
Bài & Ảnh: ĐỖ LÃNG QUÂN – Theo: Vietimes
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét