Bài xướng:
Bình
thường Tâm!
(Luật bằng, vần
trắc, nhất vận)
Tiêu
dao tay nhặt làn mây trắng
Vọc
bóng tà huy cầm tĩnh lặng
Rõ
biết cuộc đời tợ tuyết băng
Nhìn
xem danh lợi như hoa nắng
La
cà mấy độ bước xăng văng
Ẩn
dật bao ngày ngồi quạnh vắng
Được
mất thua hơn chẳng ví bằng
Bình
tâm giữa ngọt bùi cay đắng!
XÓM
ĐÙNG
Bài họa 1:
Chiều
buồn nghĩa trang
(Luật bằng, vần
trắc)
Cắm
lên mộ mẹ cành hoa trắng
Chiều
xuống nghĩa trang buồn trĩu lặng
Gió
lạnh ào ào thốc giá băng
Sương
mù lãng đãng che màu nắng
Lệ
nhòa thấm đẫm khóe môi cằn
Lòng
nhói thương về hình bóng vắng
Trên
bước đường đời ngập khó khăn
Mình
con đơn độc ôm sầu đắng.
SÔNG
THU
Bài họa 2:
Thanh
thản!
(Luật trắc, vần
trắc)
Thoang
thoảng hương nồng hoa bưởi trắng
Ngoài
hiên giàn mướp dường im lặng
Mang
niềm ảo vọng gửi nhành cây
Đưa
nỗi u hoài chan vạt nắng
Buông
xả mơ màng khép mộng xưa
Góp
gom hồi tưởng cài đêm vắng
Sáng
nầy thanh thản bước ung dung
Cho
dẫu quanh ta lời mật đắng!
NHƯ
THU
Bài họa 3:
Ngày
mai, ngày rạng đông…
“Victor Hugo” (Luật
trắc, vần trắc)
Mai,
rạng sáng, đồng quê tỏa trắng
Con
ơi, cha sẽ đi, thinh lặng
Đường
dài, núi vượt với rừng băng
Bước
rảo, mắt ghim vào ý nắng
Buồn
bã, chẳng thèm nhìn nước văng
Cô
đơn, không muốn ngắm chiều vắng
Tới
nơi, ngôi mộ đặt lên bằng
Một
bó hoa tươi, lòng chát đắng
TRƯƠNG
NGỌC THẠCH
Bài họa 4:
Buông
lơi
(Luật bằng, vần
trắc)
Bản
thân dẫu chỉ còn tay trắng
Uống
chén nồng cay xin nín lặng
Ôm
bóng cô đơn có cách ngăn
Ngắm
mây tản mác nơi xa vắng
Giữ
lòng trong sáng tợ hải đăng
Lau
lệ long lanh vì giọt nắng
Ơn
nghĩa về sau hết nhọc nhằn
Im
lời quên lửng niềm sầu đắng !
N.S.
(Canada)
Bài họa 5:
Xứ
Đoài
(Luật trắc, vần
trắc)
Mây
trắng Xứ Đoài xòa lụa trắng
Ba
Vì bóng ngả soi im lặng?
Đà
Giang nước cuộn thấu sương băng!
Truyền
thuyết Sơn Tinh... như mở nắng
Huyền
thoại Suối Tiên... tợ thác văng.
Cao
Nhân lánh đục nơi non vắng
Thần
Linh phù trợ độ thâm bằng.
Thảo
dã dân đen vơi đót đắng!
NGUYỄN
HUY KHÔI
Bài họa 6:
Ráng
(Luật bằng, vần
trắc)
Dày
công chăm bẵm sờn mưa nắng
Vẫn
ước trời yên và biển lặng
Tưởng
được đầu năm cải số đen
Vậy
mà cuối vụ hoàn tay trắng
Trên
bàn nghiên bút đã đìu hiu
Dưới
án sách đèn giờ quạnh vắng
Thi
hữu ra bài biết họa sao
Vài
câu ráng nặn dù thơ đắng.
PHAN
TỰ TRÍ
Bài họa 7:
Trái
đắng
(Luật trắc, vần
trắc)
Gần
hết cuộc đời, tay vẫn trắng
Bạn
bè thăm hỏi đành im lặng
Phải
đâu biếng nhác, chẳng ưa mưa
Mà
rất siêng năng, nào ngại nắng?
Số
phận xem ra thật hẩm hiu
Niềm
vui chờ mãi càng xa vắng
Hẳn
là định mệnh đã an bày?
Kết
quả làm sao không chát đắng?
THỤC
NGUYÊN
Bài họa 8:
Mai
trắng
(Luật bằng, vần
trắc)
Nhìn
cây mai cỗi ngời bông trắng
Dịu
nhẹ tâm hồn buông trĩu nặng
Cánh
mỏng nhụy ngời sạch sắc băng
Cành
mềm lá nõn tươi màu nắng
Hương
thơm khiết tịnh giữa vườn say
Hoa
lịch thanh tao trong cảnh vắng
Mặc
gió sương mưa vẫn đứng bằng
Cho
người ngưỡng mộ quên sầu đắng.
TRẦN
LỆ KHÁNH
Bài họa 9:
Ngày
mới
(Luật trắc, vần
trắc)
Lạnh
lẽo dần qua ngày tuyết trắng
Trong
vườn nụ nở ngời thanh lặng
Hồng
nhung tỏa ánh dợn thềm trăng
Cẩm
chướng lay cành bừng sợi nắng
Ngọn
gió hân hoan đến gũi gần
Làn
sương nhợt nhạt về xa vắng
Vui
cười đón trẻ bước tung tăng
Giản
dị trà thơm hòa vị đắng.
LÝ
ĐỨC QUỲNH
Bài họa 10:
Vẫn
mong
(Luật trắc, vần
trắc)
Đếm
nhọc nhằn trên làn tóc trắng
Xuân
đà lẹ bước qua thềm lặng
Vừa
xao xuyến mộng buổi tròn trăng
Lại
ngậm ngùi lòng ngày tắt nắng
Gối
mỏi thương mình mấy thuở hăng
Mơ
tàn xót cảnh từng đêm vắng
Còn
tin vạn sự chẳng thường hằng
Để
một ngày kia đời hết đắng.
NGUYỄN
GIA KHANH
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét