Thứ Sáu, 21 tháng 6, 2013

Bay trên sông Thao

          Ô tô xanh chạy triền đê thở cùng những đợt hôn ngạt thở. Không phải Hollywood mà hơn cả Hollywood, khi mỗi nhịp vô lăng là một scène cuồng say nơi miền không chạm đất nơi miền không lên trời. Sông Thao đang chảy trong tình yêu của tôi.
          Hẹn từ tháng Tư duo(*) tháng Tám. Một đêm chờ qua ban mai vỡ mưa, xuyên trưa nồng nàn rồi vút bay từ đại lộ Hùng Vương, hai kẻ lãng mạn cuối cùng, không lúc nào muốn nhìn đồng hồ lúc bên nhau. Trước khởi hành chuyến đầu tiên, mình đã mong ròng rã cơn trung du điệp trùng. 2000 năm di chỉ 2000 sông suối lớn nhỏ, con số cơ học không làm Vi Li quên sông Thao là một trong những con sông đẹp nhất, thơ nhất. Đẹp, vì những hiển lộ, tiềm ẩn; đẹp vì nó là dòng chảy văn hoá, lịch sử của văn minh sông Hồng. Chưa hết đại lộ dài như một cơn hôn, Anh đưa em lên đê. Sẽ chạy trên đê 35 km ngược lên thị xã Phú Thọ, quãng đường bằng 1/3 chiều dài sông Thao.

Minh họa của Đỗ Hoàng Tường.
          Sông Hồng là sông Cái, sông Mẹ. Sông Thao là một đoạn của sông Hồng chảy từ Yên Bái về Việt Trì. Tôi muốn gọi sông Thao là nàng, một nàng-không-tuổi.
          Trưa ắng men tiếng gà từ làng vắng. Lúa vụ Hè – Thu mãi xanh. Sông ửng màu da dưới mặt trời ánh sáng “um” trùm vùng êm ả, tưởng tít tắp mãi chân trời.
          Chẳng xà lan, đò dọc, đò ngang như hoàng hôn chậm ngã ba Bạch Hạc, sông Thao khỏa mình hồng nuột giữa bối cảnh ngụ tình, gọi tiên về nô đùa quên xiêm áo, hay gọi Anh xuống bến tắm cho em? Sao không thấy tàu lá chuối nào lành? Phải vì chuối quá phong tình xé mình với gió, chỉ có đọt non còn nguyên như thơ Nguyễn Trãi giữ “tình thư”. Đê cao, bên trái nàng Thao, bên phải quê làng. Mình bay cùng Thao, men từ chuyến gió mùa Xuân tóc bay tràn mặt Anh trong cơn ảo diệu. Kết của sông Thao là Việt Trì; hợp lưu với Đà, Lô (hai chi lưu của sông Hồng) đổ ra sông Hồng rồi cửa biển. Việt Trì, đỉnh của Tam giác châu thổ đồng bằng Bắc Bộ, có đền Hùng, trung tâm kinh đô Văn Lang. Nơi đây, xa xưa là cửa biển, thế hệ qua thế hệ, lớp lớp người cùng những biến thiên, lấn biển để Việt Trì thành cửa ba sông.
          Từ nơi nàng Thao duỗi chân ra Bạch Hạc, ta bắt đầu lên thượng du, tới vùng văn hóa cọ trong nền văn hóa người Việt cổ, với di chỉ, dấu vết vẫn còn tượng hình sôi động nơi tâm điểm trung du.
          Khám phá sông Thao mà lại nhớ sông Đà. Sông Đà (1960) của Nguyễn Tuân – một áng tuỳ bút mãnh liệt, gọi mời, có còn ai biết-đi-đò như Nguyễn? Đà chảy từ Lai Châu, nhỏ hơn sông Thao, song độ dốc lớn, nên người ta dùng sức nước làm nhà máy Thuỷ điện Hòa Bình, đặt những tổ máy phát điện, những turbine trong lòng núi. Đà lao qua núi nên nước Đà đen. Lớn hơn sông Đà, vẫn nhỏ hơn sông Thao, Lô thả xanh từ Tuyên Quang – miền gái đẹp, mãi trường ca biếc sóng. Lăn tăn điệp vân da hồng, Thao gợi cơn phồn sinh xứ sở.
          Đôi ta đang bay theo tả ngạn sông Thao. Bên trái em là anh. Bên trái em là Thao. Tả ngạn trái tim cuồng lưu tình bất tận.
          Mắt bay trên sóng, sông vang lời ngàn năm. Lời của ngữ hệ Tày – Thái, vùng văn hoá xen kẽ Việt – Mường. Người Tày làm chủ vùng Phú Thọ, gọi sông Thao là Nậm Tao. Vua Hùng thứ 18 sinh ra Mỵ Nương. Nếu là công chúa, tôi sẽ lấy Thủy Tinh, chàng thông minh, si tình ấy mới là tài trai đáng để tâm phục làm hiền thê mãn kiếp. Vua Hùng đã thiên vị Sơn Tinh mà ngầm “chỉ định thầu” khi thách sính lễ. Thống lĩnh Tây Bắc – Âu Việt, An Dương Vương của Âu Việt đánh thắng Lạc Việt của Vua Hùng, lập ra nước Âu Lạc, kinh đô là thành ốc Cổ Loa. Vua Hùng có Thành Mè – Phú Thọ. Nơi đây cùng Việt Trì được Pháp chọn xây dựng đô thị, thủ phủ đóng tại Phú Thọ nơi Tòa công sứ Pháp là trường Đại học Hùng Vương ngày nay. Lương tướng của Vua Hùng 18 là Ma Khê, một người Tày. Mè là Ma – họ của dân tộc Tày. Phú Thọ, Thành Mè, có chợ Mè, là thế.
          Đếm làm sao 99 quả đồi hình 99 con voi trên đất Tổ, con số biểu tượng ít hơn thực tế. Vùng Vua Hùng bao trùm Lâm Thao, Phú Thọ, Phong Châu, Việt Trì. Sông không đơn giản là sông. Sông Hồng như Hoàng Hà của Trung Quốc, như sông Hằng của Ấn Độ, là sông thiêng, mà Thao, người con đẹp nhất của Mẹ Hồng đã chứa đựng bao phù sa truyền thuyết và huyền thoại. Đi qua làng Gáp – Tứ Xã, có di chỉ Đồng Đậu – Gò Mun, có trò tháo khoán, tục dân gian lâu đời, rất Tây. Đêm 11 tháng Giêng, sau khi làm lễ, ông từ cùng đôi trai gái từ trong đền lao ra, các đôi trai gái chạy theo, ngược chiều kim đồng hồ ba vòng quanh đền, rồi tha hồ tình tự. Đâu cần đợi đến Xuân để yêu tan trời Lâm Thao, uyên ương từng giây đắm đuối. Thị trấn Lâm Thao huyện lỵ, có nhà máy Supe phốt phát & hóa chất Lâm Thao, tồn tại gần 50 năm, ba lần anh hùng, góp phần cho khắp nơi nhiều vụ mùa bội thu. Vựa lúa trù phú này là huyện tiếng tăm nhất tỉnh. Đường láng mịn nhiều khúc quanh, nhìn về phía trước, mặt chạm sông mà như đang lượn ôm ven biển. Bay trên đê lướt chậm qua vùng eo gợi cảm núi đồi, sông cuốn lưng trời phơi mở đường, đường cong gần xa, son hòa màu cọ. Buổi chiều hiền như con bê vàng cùng bầy bò tha thẩn chân đê cỏ mượt. Ai phơi lụa dòng Thao theo làn da thở. Việt Trì thiếu giai nhân, phải cất công tìm người đẹp theo hướng thượng nguồn.
                    “Sông Thao nước đục người đen 
                    Ai lên Phú Thọ thì quên đường về”
          Tôi không tin, vì biết tinh thần của nó là nói ngược. Có người lại thay Vũ Ẻn bằng Phú Thọ khi chiêu dụ câu ca dao này. Sông lấp lánh thêm vì vô vàn thôn nữ da trắng tắm chiều. Thần Nông ưu ái trung du trù mật. Thao ven thôn Chu Hưng, Hạ Hòa đã vào thơ Lưu Quang Vũ, người trai gốc Đà Nẵng, trưởng thành Hà Nội và sinh ra ở đây, đã tắm: “Cọ xanh rờn lấp loáng nước sông Thao”. Hạ Hòa, gần thượng nguồn Thao có xã Hiền Lương, ngự đền Mẫu Âu Cơ, cũng là nơi Hội Văn nghệ Việt Nam ra đời thời kháng Pháp. Mẹ Âu Cơ để lại một con ở Việt Trì làm vua, đưa 49 con lên khai khẩn núi rừng.
          Miền ken dày lịch sử, huyền sử, em mơ tương lai trong cảm giác cổ tích kéo dài. Ngạn ngữ Pháp có câu: “Nơi nào có người yêu ở bên, nơi ấy là thiên đường”. Chúng mình đang bay xứ sở Thiên đường. Thiếu nữ đang tắm sông Thao đan bóng những giai nhân thuở trước. Từ Thanh Sơn, Thanh Ba, Phù Ninh tới thị xã Phú Thọ, bao nhiêu cây sơn cho đủ vẽ nàng nàng, cho bức tranh khổng lồ chất liệu sơn mài tạo hoá. Anh hiểu nghề trồng sơn, Anh đã vẽ bao vẻ đẹp bằng ngôn ngữ, phóng tay tuôn đẫm mỹ từ. Cơ man tiên của đời thực khỏa trắng chiều. Không gian khoáng đạt và trinh khiết tỏa mùi rừng, mùi sông, mùi yêu. Hồ Xuân Hương đang ngủ giấc trưa. Thiếu nữ họ Hồ theo cha đến đất này, thế kỷ 19 hiện ra bên mái nhà lộng gió còn vương bóng nàng. Lan trên sóng những giai điệu của Volga bên Moskva, Neva của Saint Péterbursg và Danube trôi qua các thành phố cổ kính. Hoa sở trắng soài bay theo gió lẳng lời Trịnh Công Sơn ngân thảng thốt đóa hoa vô thường: “Có con chim hót tên là ái ân/ Gió mùa thu rất ân cần/ Một thời yêu dấu đã qua/ Gót hồng em muốn quay về/ Tìm lại trên sông những dấu hài”. Trên đường đồi trung du đá ong đất đỏ, bên dòng thơ, gót son khiêu vũ theo các bản nhạc cổ điển tuyệt tác của loài người dồn về đây vòng vòng xoay đĩa hát thời gian. Sông Thao dịu mát gọi mời. Thân thuyền cong triền cát sông cạn nước tháng Tư, giờ neo giữa sông đầy. Ba trụ cầu đang đổ móng. Bến phà Ngọc Tháp vẫn cần mẫn đưa khách từ thị xã Phú Thọ sang huyện Tam Nông. Xã Hiền Quang bên ấy có Hội đền bà Thiều Hoa – của hai chị em nữ tướng cách đây hơn 19 thế kỷ. Cái phà sắt rẽ dòng, phun khói đen, khi đơn, khi đôi đi về; bom đạn không làm mất, không gián đoạn, thời bình lại sắp bị xóa sổ, thành dĩ vãng. Hễ cầu mọc lên là mất phà. Ôi những chuyến phà đã đi vào văn thơ, nhạc họa, phim ảnh tâm trí bao người! Nhiều kẻ có mới nới cũ, công nghiệp hóa tốc độ sống, sẽ quên phắt phà sắt, đò ngang. Riêng tôi, muốn giữ mãi những con phà. Vẫn còn đấy, phà Chí Chủ từ Thanh Ba đi Cẩm Khê, chéo lên phía Tây mặt trời lặn. Không ở Phong Châu mà gió thổi lộng. Tưởng tượng Thao như sông Loire, bao cung điện lâu đài hai bên, nơi các vua, lãnh chúa, quý tộc Pháp thường chia thời gian sống cùng Paris tráng lệ. Những đền đài, cung điện nghiêng bóng xuống dòng Thao. Âm vang nhịp chiêng khí phách hồn Việt miên man xoan, ghẹo.
          Lời tình của đất trời, gọi sum vầy các đời vua, hoàng tử, công chúa. Dội sóng những trận đánh hào khí từ thuở Nhà nước Văn Lang tới khi có nước Việt thống nhất non sông; quyết liệt, dữ dội để giành lấy thanh bình. Thư thả những Mỵ Nương truyền kiếp vào các thiếu nữ ven dòng sông huyền thoại, khiến những ai biết yêu muốn trở đi trở lại, không rời.
          Tỉnh lỵ cũ nên thơ xanh cổ thụ từng có nhiều công trình kiến trúc Pháp chắc là thị xã đẹp nhất miền Bắc Việt Nam. Ở Tô Châu (Trung Quốc), nhà nào sinh con gái, sẽ trồng cây long não nhỏ. Nhìn cây long não trước cửa, biết cô con gái nhà ấy lớn chừng nào. Phú Thọ có bao nhiêu giai nhân, ai đếm được, như không ai nói chính xác có bao cây long não? Chỉ biết, dầu từ hoa long não là của quý, và mùi hoa long não vẫn hằn.
          Cọ xòe bàn tay chào hay kêu cứu? Cọ không đủ nhiều để bạt ngàn mãi không hết. Cọ không còn để điệp trùng ngút mắt. Tất cả những nét đẹp nguyên thủy, những gì cổ kính khắp nước mình đều bị phá, mất dần đi. Chỉ có sự lắng đọng êm đềm vẫn tỏa khi bắt đầu chạm vào thị xã. Đoàn tàu hỏa lên Tây Bắc, rủ nhau những toa buồn qua ga chiều trung du. Đường dốc mơ màng cổ phổ diệp lục xà cừ đưa mình say trên dốc Tỉnh.
          Xa lắm những người con gái khi đất nước lâm nguy phải cầm gươm ra trận. Đất thiêng đã hóa giải tất cả bi kịch, nỗi đau bằng những giai thoại, khát vọng sinh sôi, yêu và mơ ước. Cùng phía tả ngạn này, phía trên là Thanh Ba, Hạ Hòa. Bên kia sông, huyện Tam Nông có làng Văn Lang nói khoác. Ngược thượng du, để nguồn sông Thao ngả vào Vũ Ẻn, Ấm Thượng, Đan Hà – cái làng đẹp như mơ quê nhà văn Hà Phạm Phú, chót cùng Hạ Hòa, huyện “biên giới” Phú Thọ giáp Yên Bái.
          Cọ đã lợp mái Văn Lang từ tiền sử đến nhiều thế kỷ sau, lợp dày lớp lớp ký ức. Chúng ta vút tới thế kỷ 22 hay hồng hoang đang hiện. Lưu tốc chậm lại, lưu vực hẹp dần, nhưng những con sông văn hóa vẫn không ngừng bồi tụ, trầm tích ngàn năm như tình sử không bao giờ kết.
          Đan nhau, chúng mình bay trên sóng trong không gian ba chiều huyền nhiệm từ ngã ba sông nổi tiếng nhất Việt Nam.
          Tháng Tám lịch trăng, quả cọ xanh chín sẫm, mình sẽ ăn quả cọ ỏm bên cây rơm ngất ngưởng khói chiều. Hay chờ Xuân ăn cọ đồ xôi, tằm cọ. Chúng mình sẽ chu du đầu nguồn Thao, ướt mềm để si tình kiếp nữa nơi bến phà Tình Cương (thuộc Cẩm Khê). Linh cưỡi hạc trắng bay đến miền hợp linh định mệnh của hiện thực và ảo giác, phập phồng và mê đắm, phơi mở và căng chật, trong khiết và hoang dại, những mùa yêu...
          Đêm 18-8, nửa trăng như phiến môi chờ hôn dịu sáng. Tối mùa Thu trinh tĩnh, phố đêm lưu mùi em mùi Anh nguyên khiết đường khuya chỉ có hai ta nhịp hôn vĩ cầm dìu dặt. Gala tình yêu trên cao Lưu Thủy, một thế giới giao linh những hữu hình vô hình lưu linh hợp sóng. Và trưa 19, ta lại trở về Việt Trì, lại qua đê và sông, sống chậm từng giây trên triền mơ lần nữa. Lần nữa bay theo sông Thao, quai nón buông muôn thuở gợi tình...

                                                                                            26-8-2010
                VI THÙY LINHTheo: www.tapchisonghuong.com.vn (SĐB 10-2010)

Ghi chú: (*) Song tấu trong âm nhạc

Không có nhận xét nào: