Thứ Sáu, 17 tháng 4, 2015

Ở nơi rừng cọ đồi chè

Sông Thao sậm nâu, chảy chầm chậm giữa lau xám, ngô non, giữa hoa dong riềng chấp chới liền kề ruộng lúa chạy một mạch rồi đứng khựng trước dãy núi được viền chân bởi một vệt rừng cọ, bát ngát, bạt ngàn. Bắt đầu vượt bến đò Tình Cương dốc đứng, là nẻo đường đất sét gập ghềnh. Cọ lẫn lúa, cọ lẫn chè, cọ lẫn trong những mái nhà nắng mưa mòn cũ bồi hồi... Cọ chạy dài đến tận Hiền Lương – nơi là chiến khu xưa. Nhìn ngang thấy cọ, nhìn xuôi thấy cọ, nhìn lên thấy cọ, nhìn ngược thấy cọ. Ði trên đất Cẩm Khê, đâu đâu cũng chờn vờn bóng cọ, bóng cọ tiếp nối bên đường như đoàn người đang chạy tiếp sức. Hai bên bờ sông Thao, bóng cọ nghiêng nghiêng bên sườn dốc, mầu đất đỏ như vệt son ngoằn ngoèo.
 
Móm cọ.
Nơi gần ngọn nguồn sông Thao, trước đền thờ Âu Cơ trên đất Hiền Lương, ở nhà họa sĩ Quang Thái. Anh là người sinh thành giữa một vườn cọ, ở một nơi mà thói quen phóng khoáng trong sinh hoạt đã hóa thân vào những câu ca dao mà tôi rất muốn tin là chưa có trong bất cứ sưu tập ca dao nào.
          Lâm Lợi ăn đợi nằm chờ
            Bên chai, bên chó là người Lâm Lơi...
Bữa trưa đang đến gần trong rì rầm to nhỏ từ phía bếp, mùi khói bay lên từ "cẫng" cọ khô dùng nhóm lửa. Ông cụ thân sinh của họa sĩ, bước đi lắc lư từ ngoài đồi cọ về nhà, một vai vác cây hóp đá dài đũng đẵng, còn để nguyên "vấu" (nhánh) làm bậc để trèo lên cây cọ, một vai đeo cái "móm" cọ mầu lá còn non tươi, đầy ắp những trái cọ bầu (cọ phấn) to đều như quả bóng bàn, căng ứ mầu xanh đen phớt ánh tím như những con mắt tinh nghịch.
Bữa cơm mời khách hôm ấy không sơn hào hải vị, thế nhưng lại vượt ra ngoài tưởng tượng của chúng tôi. Tất cả các món ăn hoàn toàn có nguồn gốc từ cọ. Ðặc biệt nhất là trái cọ bầu trộn gạo nếp đồ xôi. Tôi dán mắt xem ông cụ chế tác món xôi quả cọ. Cụ chặt những thanh nứa tươi, băm vụn và chỉ dùng nguyên phần cật nứa, rắc đều lên rổ quả cọ rồi xóc xóc nhẹ tay như người ta vẫn xóc gạo. Hồi lâu, như có phép mầu, lớp vỏ lụa mỏng tang bao bọc quả cọ bị cật nứa cứa đứt nhẹ nhàng, như giấy than đánh máy bị xé vụn. Theo ông cụ thì chất chát đắng của quả cọ nằm ở lớp vỏ bị lột bỏ kia. Nền thịt của quả cọ nâu hồng lộ ra ngon lành như những viên kẹo sẫm mầu bày đều lên đĩa sứ. Ðợi nước nóng ấm tay thì nhấc nồi khỏi bếp, từ từ đổ quả cọ vào ngâm ủ quãng mười lăm phút.
Vớt quả ra, dùng ngón tay lẩy nhẹ nhàng tách phần thịt dày bằng một lớp giấy các-tông. Thịt của quả cọ ấy đem trộn đều với gạo nếp, đồ trong chõ xôi khoét bằng thân cọ, nấu cũng bằng củi cọ. Xôi nếp trộn cùi cọ bầu, phi hành mỡ thơm ngậm thơm ngùi. Vị gạo nếp, vị quả cọ béo, bùi lâng lâng nơi đầu lưỡi.
Trước những ngôn từ mà chúng tôi không hạn chế để ngợi ca món xôi cọ, ông cụ bảo nếu có thời gian ông sẽ làm món cọ nhồi nấm hương thịt gà đãi chúng tôi. Món chủ đạo tiếp theo là "óc" cọ xào lòng gà. "Óc" cọ lấy từ phần nõn của cây cọ, nơi vẫn mọc lá. Món này có thể nói là hơi lãng phí, vì hễ muốn ăn thì mỗi lần phải chặt một cây cọ. Ngả cây cọ, dù cọ non hay cọ già không can hệ lắm, miễn là dùng rìu bổ vỡ đôi được "óc" cọ, cắt lấy phần nõn trắng ngần như đậu phụ, mềm rụt như ngò cải. Mỗi nõn cọ ít nhất cũng nặng tới cả ki-lô-gam. Múc nước giếng, bỏ nhúm muối vào chậu, thái lát nõn cọ như thái cải củ hay su hào, thả ngập đều trong nước ngâm ít phút. Vớt ráo nước, xào với lòng gà như cách xào thông thường khác.
Nõn cọ trắng giòn, ngọt như mực xào, nhai sần sật. Gắp chưa ngơi đũa này đã muốn tiếp đũa nữa. Măng cũng chẳng phải, thịt cũng không phải. Vị giác cứ băn khoăn phán đoán nghi hoặc. Lúc đã "cọ... dư tửu hậu", chúng tôi ngỏ ý muốn được bàn về cây cọ, ông cụ cao hứng khoát tay chỉ về phía rừng cọ xôn xao gió.
- Ðấy, các anh nhìn xem thân cọ cao vút hiên ngang, được bao bọc bên ngoài lởm chởm những vè cọ, lá cọ rộng, dày che kín được cả chiếc nong lớn. Cọ đội lấy trời, níu lấy mây như tráng sĩ thời tiền sử... Ở đâu cọ cũng sống được từ ruộng lầy thụt, đến núi cao, đồi gò sỏi đá ong, hay đồng bãi ven sông. Cọ không bao giờ chê đất mà cọ sống tới một hai trăm tuổi... Ðồng đất đây chỉ có hai giống cọ, cọ xẻ và cọ bầu, giống nào cũng tốt. Lão nghĩ ở vùng thượng du, cây cọ còn hữu ích cho nhà nông hơn cả cây tre...
Vâng quả vậy, thưa cụ. Văn hóa tre trải rộng gần hết vùng Ðông-Nam Á nhưng Văn hóa cọ là văn hóa tiểu vùng nằm trong Văn hóa tre. Chính nhờ yếu tố tiểu vùng văn hóa mới làm nên sự đa dạng, đặc sắc của văn hóa Ðất Tổ. Cây cọ, không chỉ là sắc mầu lịch lãm trong ẩm thực, nó còn là loài cây gắn bó với cuộc sống của người vùng đồi.
Xin được dẫn lại từ cuốn sách của Nguyễn Xuân Lân, phần khảo cứu về cây cọ: "Cọ là thứ cây có giá trị sử dụng lớn, toàn bộ cây cọ không bỏ đi một thứ gì. Lá cọ lợp nhà, chắn vách, làm chổi, làm bầu gánh phân, gánh củ, móm hạt giống, gầu múc nước, làm quạt. Búp cọ khâu nón, áo tơi, vặn thừng, vặn chão, đan làn xuất khẩu... Thân cọ làm cột nhà, cột điện, thân cầu khỉ, máng nước, máng lợn, chõ đồ xôi... Ngày trước thân cọ còn dùng làm câu đối mộc thiếp vàng đẹp vô cùng, chỉ những nhà giàu mới mua sắm nổi. Cuống cọ làm rui mè, lạt buộc, rào dậu hoặc thay tre đan rọ lợn, lồng gà, dành gánh đất, rồi đến mành cọ, một mặt hàng xuất khẩu được ưa chuộng. Cuối cùng, những thứ gì còn lại của cây cọ được đưa vào bếp làm củi đun, chẳng bỏ phí hoài một thứ gì cả..." (Ðịa chí tỉnh Vĩnh Phú, năm 1975).
Dù rằng người và sách đã nói hết về cọ, nhưng tôi – kẻ hậu sinh, vẫn muốn nói thêm từ góc của mình. Chỉ xét nguyên tàu lá cọ đã là vật dụng làm được bao nhiêu là việc cho con người: Lá cọ phơi khô, ngâm hết diệp lục, dùng liềm sắc cào bớt phần lá, chỉ giữ lại phần gân. Thứ lá ấy lợp mái dày thì nắng mưa đều bất lực, đến độ người ta phải dùng cối đá lăn cho xẹp bớt để nước mưa khỏi dốc ngược vào trong. Mái lá cọ che chở cho khung nhà gỗ mít, gỗ xoan chạm rồng trổ phượng, mai, cúc bền lâu đến cả trăm năm.
Hay như cái "móm" cọ, một đồ dùng thân thiết của người vùng đồi: lá cọ chỉ cần túm lại phần chót lá buộc chặt hai đầu, là đã có thứ đồ đựng chất liệu hoàn toàn hợp tự nhiên, không gây ô nhiễm môi trường trong chế tác và sử dụng. "Móm" cọ đựng ngô, lúa, đựng chè tươi đi bán ngoài chợ, đựng sắn tươi trên nương về, móm cọ đựng trái cọ và... đựng bất cứ thứ gì cần đựng.
Thân thiết với con người đến vậy, cây cọ đã hóa thân vào cuộc sống, vào tình yêu lứa đôi trong ca dao vùng Ðất Tổ:
          Ði đâu nón chẳng đội đầu
            Lại đây hai đứa lấy tàu cọ che...
Rồi:
          Nón ai nón bạc nón vàng
            Nón em tàu cọ che ngang mặt trời
Và:
          Nón em đã có lời thề
            Chàng mà lấy nón em về sao đang,
chưa nói rằng:
          Thương anh, em biết để đâu
            Ðể vào móm cọ treo đầu cành đa
          Con sụng bay qua, con quạ bay qua
            Móm cọ thì mất, cành đa vẫn còn...
Tôi muốn cố thêm một đôi dòng nữa về cọ, đó là những chiếc chổi làm từ cọ. Suốt miền bắc nước Việt dù nông thôn hay thành thị, chiếc chổi lá cọ xẻ dùng quét sân, quét đường không thể thiếu vắng, dù một ngày. Rồi chiếc chổi quét mạng nhện trong khe kẽ tủ chè sập gụ, bằng phần cuống cọ đập dập còn nguyên gân dẻo dai, được treo trang trọng bên chiếc cột quân, hay ẩn mình dưới gậm chiếc bàn của bộ trường kỷ. Rồi chổi quét lúa, chổi quét sân gạch... mòn trơ rồi mà vẫn quét phăm phăm.
Người con gái trong câu ca dao xưa đã than: Móm cọ thì mất, cành đa vẫn còn... Nhưng bây giờ không những móm cọ mà cả cành đa nữa, cũng đang bị chính con người làm cho mai một. Rừng cọ, cây đa không dễ gì để ngày một ngày hai là có được, nếu không nói là phải mất hai mươi năm, ba mươi năm...
Trên dòng sông về xuôi, không còn thấy bè tre, bè nứa chồng cao ngất lá gồi, thì trên đồi, trên núi loang lổ vệt trượt đất như vết thương xối máu. Con người đang hủy hoại dần môi sinh, cũng chính là hủy hoại môi trường của những vật thể văn hóa tự nhiên trong làng xã mà bao nhiêu năm nay đã trở nên quen thuộc, đã thấm ngấm vào máu thịt của mình, liệu con người có biết hay không?
Tôi lại nhớ tới cô giáo của tôi từ thuở thiếu thời, cô Nguyễn Thị Phương Du, người Cẩm Khê. Cô bảo với lũ học trò trẻ con chúng tôi rằng, quê cô nhiều cọ đến nỗi đi cả ngày không qua hết rừng cọ. Nếu có dịp mời các em về chơi... Ngày ấy, tôi không thể nào hình dung được rừng cọ dài rộng thế nào, nên cũng láng máng vậy thôi. Vậy rồi buổi học ấy đã trôi theo thời gian gần ba mươi năm... Thưa cô, thời thiếu nữ cô đi dạy học xa nhà, nhớ nhiều về quê cọ, nhớ một chiều xuân tiễn người trai làng ra trận. Và cô đã thổi tình yêu thiên nhiên, tình yêu con người vùng đồi ấy cho chúng em. Ðể rồi hôm nay, ngọn gió rừng cọ ngày xưa vẫn đang lay động, những chiếc lá cọ tơ non trước mắt em, trong một ngày trung du nắng đẹp.

NGUYỄN THAM THIỆN KẾTheo: www.nhandan.org.vn

Không có nhận xét nào: